Lịch sử Đo sâu điện thẳng đứng

Các dạng ban đầu của phương pháp điện trở được nhà địa vật lý người Pháp - Đức Conrad Schlumberger đưa ra từ năm 1912. Phương pháp điện trở chiếm vị trị lớn trong các phương pháp địa vật lý hồi giữa thế kỷ 20 về trước.

Ngày nay đo VES từng điểm một đã trở nên lỗi thời, nên không được phương tây chú ý đến. Bài viết tiếng Anh Vertical electrical sounding là dịch lược từ bản Вертикальное электрическое зондирование, nên đã dùng các biểu diễn kiểu Nga, trong đó ρ k {\displaystyle \rho _{k}} với k {\displaystyle k} lấy từ кажущееся сопротивление (điện trở biểu kiến). Các văn liệu Anh-Mỹ dùng biểu diễn current electrodes là C1 C2, potential electrodes là P1 P2, và "điện trở biểu kiến" là ρ a {\displaystyle \rho _{a}} với a {\displaystyle a} là apparent resistivity.

Từ khoảng năm 1995 các máy đo thăm dò điện trở đã được thay thế bằng hệ máy đo đa cực, như "IRIS Instruments Syscal Pro" từ Pháp [4], "ABEM Terrameter SAS 4000" từ Thụy Điển [5], "AGI MiniSting Resistivity and IP Meter" từ Hoa Kỳ [6], "DMT Widerstandsmesssystems RESECS" từ Đức [7],... Các thiết bị này sử dụng dòng phát I T x {\displaystyle I_{Tx}} (tức IAB) là xung đảo chiều có quãng nghỉ, thiết kế chung cho đo điện trởphân cực kích thích. Hệ thống đa cực cho ra mặt cắt ảnh điện trở (ERT, Electrical resistivity tomography) chính xác và trực quan hơn. Các máy tính nhúng cài sẵn điều khiển đo và lưu số liệu. Tín hiệu thu được U R x {\displaystyle U_{Rx}} (tức UMN) được số hóa, lọc nhiễu và xử lý bằng kỹ thuật tích lũy tín hiệu từ kỳ phát dương và âm, cũng như từ nhiều chu kỳ. Khi dùng điện cực có pha bạch kim làm giảm độ phân cực điện cực, thì trong một phép đo dài một vài chu kỳ xung, máy sẽ cho ra:

  • Điện trường thiên nhiên VSP, là trị trung bình của tín hiệu vào;
  • Điện trở suất ρ a {\displaystyle \rho _{a}} tính từ V ρ {\displaystyle V_{\rho }} ở kỳ phát TOn;
  • Hệ số phân cực, tính từ điện thế phân cực kích thích VIP tại các gates đo t1, t2,... tn ở kỳ nghỉ TOff.

Tại thực địa đội đo thực hiện rải từ 48 đến 2048 điện cực và nối về máy, sau đó máy thực hiện chọn cực đo theo chương trình chỉnh đặt được. Máy sẽ tích lũy tín hiệu đến khi đạt độ chính xác cần thiết, cỡ 1%, và nếu không có nhu cầu đo phân cực kích thích thì máy sẽ kết thúc khi kết quả đo điện trở đạt độ chính xác yêu cầu. Sau đó là chuyển số liệu sang máy tính phân tích. Hầu hết các phần mềm phân tích được bán kèm với máy, và có khóa cứng bảo vệ bản quyền.

Dẫu vậy, các phần mềm ảnh điện như Res2Dinv vẫn có menu dành cho nhập số liệu đo VES rời rạc, cho ra kết quả giải ngược Mặt cắt ảnh điện 2D.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đo sâu điện thẳng đứng http://simfem-en.blogspot.com/p/vesstudy.html http://www.iris-instruments.com/syscal-pro.html http://www.dot.ca.gov/hq/esc/geotech/gg/geophysics... http://www.resistivity.net http://dgmv.gov.vn/index.php/gioi-thieu-don-vi/lie... http://igp-vast.vn/index.php/vi https://www.agiusa.com/ministing https://www.dmt-group.com/de/produkte/geomesssyste... https://mountsopris.com/ql40-elog-electrical-resis... https://web.archive.org/web/20091122164806/http://...